TỔNG KẾT 10 NĂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI
- Thứ sáu - 20/09/2019 09:28
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp là chính sách mới và là một trong các chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, là công cụ quản trị thị trường lao động, là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, nhưng quan trọng hơn là tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm cho người lao động. Sau 10 năm triển khai, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Cục Việc làm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp kết quả đạt được như sau [1]:
Một là, tham gia và thu bảo hiểm thất nghiệp. Số lượng người tham gia và đóng bảo hiểm thất nghiệp liên tục tăng qua các năm và đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao: nếu năm 2009 mới chỉ có 5.993.300 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp thì tới năm 2015 (năm đầu tiên Luật Việc làm có hiệu lực) đã có 10.308.180 người tham gia tăng 11,8% so với năm 2014; năm 2016 có 11.061.562 người tham gia tăng 7,3% so với năm 2015; năm 2017 có 11.774.742 người tham gia tăng 8,1% so với năm 2016 và năm 2018 có 12.680.173 người tham gia tăng 7,7% so với năm 2017, bằng 87,7% tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (14,45 triệu người), tổng số đơn vị tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 361.586 đơn vị.
Tổng số tiền thu bảo hiểm thất nghiệp không ngừng tăng qua các năm, tính đến thời điểm năm 2018, bình quân tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp hằng tháng của người lao động là 4.937.117 đồng, tăng 9,94% so với bình quân tiền đóng năm 2017, tổng số tiền thu bảo hiểm thất nghiệp năm 2018 là 15.531 tỷ đồng, tăng 14,9% so với tổng số tiền thu năm 2017 (13.517 tỷ đồng).
Hai là, tư vấn, giới thiệu việc làm. Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm được đặc biệt quan tâm, các trung tâm dịch vụ việc làm đã tập trung triển khai thực hiện, đa dạng hóa các hình thức và cải tiến quy trình thực hiện, số lượng và hiệu quả người được tư vấn, giới thiệu việc làm tăng theo từng năm và chiếm tỷ lệ khá cao so với số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp (trên 96,8% so với số người hưởng trợ cấp thất nghiệp). Năm 2010 có 125.562 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm thì đến năm 2015 là 463.859 lượt người (tăng 3,6 lần so với năm 2010), đến năm 2018, số người được tư vấn, giới thiệu việc làm là 1.390.429 lượt người, tăng hơn 10 lần so với số người được tư vấn, giới thiệu việc làm năm 2010. Kết quả 7 tháng đầu năm 2019 có 936.595 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm, trong đó số người được giới thiệu việc làm là: 110.297 người.
Ba là, hỗ trợ học nghề. Theo báo cáo của 63 Trung tâm dịch vụ việc làm, tất cả những người thất nghiệp có nguyện vọng học nghề đều được tổ chức để hỗ trợ học nghề theo đúng quy định của pháp luật. Công tác hỗ trợ học nghề đã có những chuyển biến tích cực, số người được hỗ trợ học nghề có xu hướng tăng, năm 2010 chỉ có 270 người được hỗ trợ học nghề, số người được hỗ trợ học nghề liên tục tăng qua các năm, năm 2015 có 24.363 người được hỗ trợ học nghề; đến năm 2018 số người được hỗ trợ học nghề là 37.977người. Đến nay đã có trên 180.000 người thất nghiệp được hỗ trợ học nghề, nhiều người thất nghiệp sau khi tham gia các khóa học nghề đã có việc làm và ổn định cuộc sống. Một số địa phương có số người được hỗ trợ học nghề cao như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương...
Bốn là, tiếp nhận và giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp. Số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp gần 5 triệu lượt người và có xu hướng tăng qua các năm; năm 2010 chỉ có 156.765 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, năm 2015 có 526.309 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng gấp 3 lần so với năm 2010. Từ khi Luật Việc làm có hiệu lực với việc thay đổi cách tính thời gian hưởng bảo hiểm thất nghiệp, tỷ lệ tăng số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp giai đoạn 2015 - 2018 là khá ổn định, tỷ lệ bình quân là 12,5% (năm 2016 tăng 11,4% so với năm 2015, năm 2017 tăng 14,5% so với năm 2016; năm 2018 có 763.573 người hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 13,7% so với năm 2017, tăng gần 4 lần so với năm 2010; tổng số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp trên cả nước 7 tháng đầu năm 2019 là 483.291 người, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2018). Ngoài ra, người lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp còn được cung cấp thông tin về thị trường lao động để tìm việc làm và sớm trở lại thị trường lao động, thẻ bảo hiểm y tế trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể khám chữa bệnh.
Năm là, chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Do số người được hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp tăng dẫn đến tổng tiền chi cho các chế độ bảo hiểm thất nghiệp tăng: năm 2015 tổng chi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp là 4.882,9 tỷ đồng (tăng 1,3% so với năm 2014), năm 2016 là 5.171 tỷ đồng (tăng 5,9% so với năm 2015), năm 2017 là 7.831 tỷ đồng (tăng 36,31% so với năm 2016), ước thực hiện năm 2018 là 9.722 tỷ đồng, trong đó chi cho trợ cấp thất nghiệp chiếm 92,8%, chi hỗ trợ học nghề chiếm 0,9%, chi bảo hiểm y tế chiếm 4,1% so với tổng chi cho các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ước kết dư Quỹ bảo hiểm thất nghiệp tính đến cuối năm 2018 là 79.073 tỷ đồng, dự báo đến năm 2020, Qũy bảo hiểm thất nghiệp vẫn đảm bảo an toàn.
Ảnh 1: Hình ảnh tại Hội nghị Đánh giá 10 năm thực hiện chính sách BHTN và Định hướng
Sau 10 năm triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã đạt được những kết quả khả quan góp phần thực hiện nâng cao đời sống người dân, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách còn gặp nhiều khó khăn nên kết quả vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Phòng Bảo hiểm thất nghiệp - Cục Việc làm thực hiện tổng kết 10 năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) báo cáo những kết qủa đạt được, nhìn nhận những hạn chế còn tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất những giải pháp quan trọng trong thời gian tới như sau:
1. Những mặt được
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp được ban hành đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật, cụ thể, đáp ứng được những vấn đề thực tế đặt ra và theo thông lệ quốc tế. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp liên tục được khẳng định trong văn bản Luật và các văn bản hướng dẫn;
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã đi vào cuộc sống, hỗ trợ người sử dụng lao động và người lao động, thực sự là điểm tựa của că người lao động và người sử dụng lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, được các ngành, các cấp và xã hội đánh giá cao;
- Công tác tuyên truyền, phổ biết được quan tâm đúng mức, nhất là sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan báo chí, truyền thông nên đã nhận thức đúng vai trò, vị trí, các chế độ của chính sách bảo hiểm thất nghiệpở các cấp, các ngành, người lao đọng và người sử dụng lao động;
- Việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp thực sự đã đảm bảo nguyên tắc chia sẻ, đóng - hưởng và an toàn Quỹ, thể hiện sự hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ; chia sẻ hỗ trợ lẫn nhau của những người lao động, giữa người có nguy cơ mất việc làm thấp với người có nguy cơ mất việc làm cao, thể hiện tính nhân văn và thúc đẩy gắn kết xã hội;
- Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp liên tục tăng qua từng năm, đến nay là gần gần 13 triệu người tham gia, vượt so với dự kiến.
- Việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã được chuẩn bị đầy đủ cả về cơ sở vật chất và nhân lực, ở cả Trung ương và địa phương đảm bảo chính sách được ban hành là triển khai ngay theo đúng pháp luật, đảm bảo giải quyết bảo hiểm thất nghiệp theo phương châm 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn”;
- Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề ngày càng tăng cường và hiệu quả. 96,8% được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí; hơn 180 nghìn người được hỗ trợ học nghề;
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính và hợp tác quốc tế trong thực hiện bảo hiểm thất nghiệp;
- Việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã được các tổ chức Quốc tế quan tâm, trong đó trước hết là Tổ chức lao động Quốc tế tại Việt Nam, hỗ trợ của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước đã thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.
2. Những hạn chế
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa thực sự gắn với thị trường lao động, chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ để người lao động duy trì việc làm cho người lao động để tránh sa thải lao động; đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp chưa được mở rộng đến người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng, đây là đối tượng có nguy cơ mất việc làm cao; các quy định về điều kiện hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động là khá chặt chẽ, ít xảy ravà chưa có giải pháp hơn nữa để hỗ trợ người sử dụng lao động duy trì việc làm, ngăn ngừa sa thải lao động; chưa có giải pháp hỗ trợ cho người lao động được bồi dưỡng, phát triển kỹ năng nghề hoặc nâng cao tay nghề...
- Quỹ bảo hiểm thất nghiệp chưa được sử dụng để chi cho trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện các chế độ về tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề, kể cả việc thu thập, phân tích, dự báo thông tin thị trường lao động, nhất là dữ liệu việc làm trống phục vụ cho người thất nghiệp.
- Nhận thức về bảo hiểm thất nghiệp của một số người lao động và người sử dụng lao động còn chưa cao; không ít người lao động và người sử dụng lao động chưa hiểu hết quyền và trách nhiệm của mình;
- Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp nói riêng còn hạn chế dẫn đến ảnh đến quyền và lợi ích của người lao động;
- Công tác quản lý lao động còn nhiều bất cập, chưa có công cụ hữu hiệu để quản lý lao động để kiểm soát đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp và tình trạng việc làm của người lao động trên phạm vi cả nước;
- Công tác nhân sự tại trung tâm dịch vụ việc làm còn nhiều khó khăn, cả về quy định, số lượng và chế độ.

Ảnh 2: Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp phát biểu tại Hội nghị
Ngày 23/5/2018, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã đặt ra mục tiêu cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (trong đó bao gồm bảo hiểm thất nghiệp) để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, trong đó tập trung về tổ chức bộ máy và nhân sự, cơ chế tài chính đảm bảo tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả để chính sách bảo hiểm thất nghiệp thực sự trở thành công cụ quản trị thị trường lao động. Cụ thể, giai đoạn đến năm 2021: phấn đấu đạt khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; tỉ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giai đoạn đến năm 2025: phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; giai đoạn đến năm 2031: phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp [2].
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên cũng như để đạt hiệu quả việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian tới, Bộ LĐTB&XH đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại Luật Việc làm vào năm 2021-2022 theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, khắc phục tình trạng gian lận, trục lợi bảo hiểm thất nghiệp, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật việc làm.
Hai là, hoàn thiện hệ thống tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp:
- Hệ thống thực hiện bảo hiểm thất nghiệp phải đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan tổ chức thực hiện, chủ động phát huy giá trị cốt lõi của chính sách bảo hiểm thất nghiệp là tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề và duy trì việc làm; gắn kết giữa giải quyết các chế độ cùng với việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện. Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh phù hợp các chức năng nhiệm vụ ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và ngành bảo hiểm xã hội trong việc thu, chi, tiếp nhận giải quyết, quản lý Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức dịch vụ việc làm để thực hiện tốt tư vấn và hỗ trợ việc làm, vì đây là hướng giải quyết người thất nghiệp một cách bền vững nhất. Nghiên cứu, xem xét xây dựng mô hình chuẩn của trung tâm dịch vụ việc làm để thực hiện tốt các nhiệm vụ tư vấn, thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, cung cấp lao động và dạy nghề...
- Hoàn thiện và thực hiện thống nhất các quy trình về nghiệp vụ dịch vụ việc làm để hỗ trợ cho người thất nghiệp, bao gồm: quy trình thu thập, xử lý, cung cấp, dự báo thông tin thị trường lao động; quy trình giới thiệu, cung ứng lao động; quy trình hỗ trợ, tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động; quy trình hỗ trợ người sử dụng lao động nhằm tránh sa thải, cắt giảm hoặc thu hút thêm lao động.
- Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, bố trí hợp lý số lượng chi nhánh, văn phòng đại diện trên từng địa bàn để đảm bảo hệ thống tinh gọn, hiệu quả.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy các trung tâm dịch vụ việc làm trên cơ sở phân loại mức độ phát triển thị trường lao động, đảm bảo tổ chức bộ máy đủ điều kiện thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin.
Ba là, nâng cao năng lực đội ngũ nhân sự thực hiện bảo hiểm thất nghiệp
- Tổ chức đánh giá, phân loại chất lượng nhân sự để xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ cho nhân sự thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm nghiệp vụ bảo hiểm thất nghiệp và các kỹ năng cần thiết khác.
- Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn bảo đảm tất cả nhân sự thực hiện bảo hiểm thất nghiệp được tuyển dụng dựa trên năng lực và kỹ năng phù hợp với việc triển khai chính sách thị trường lao động tích cực. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển dụng và sử dụng nhân sự thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.
- Xây dựng nội dung chương trình và tổ chức đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng theo hình thức tập trung và trực tuyến. Nhân sự cần được tập huấn nghiệp vụ thường xuyên, đặc biệt khi có những thay đổi về chính sách, quy trình thực hiện.
- Chuẩn hóa đội ngũ nhân sự làm công tác dịch vụ việc làm thông qua sát hạch và cấp chứng nhận được hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm.
- Tiếp tục cải cách chế độ, chính sách sử dụng, thu hút, đãi ngộ, khen thưởng gắn với hiệu quả công việc nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch quyền lợi phải gắn với trách nhiệm và sự cống hiến, tạo động lực cho nhân sự thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Bốn là, nghiên cứu đổi mới toàn diện nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền phù hợp với đặc điểm, tính chất đặc thù của từng nhóm đối tượng, vùng miền, bảo đảm hiệu quả công tác tuyên truyền gắn với phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp nhằm rà soát, phát hiện những vấn đề phát sinh để hoàn thiện chính sách, pháp luật; đồng thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Sáu là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp: hình thành cơ sở dữ liệu về thu, chi, quản lý đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm thất nghiệp ở Trung ương, tiến tới điện tử hóa quá trình thu, chi bảo hiểm thất nghiệp theo chủ trương hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán của Chính phủ; hoàn thiện, nâng cấp phần mềm bảo hiểm thất nghiệp; thực hiện chia sẻ, kết nối thông tin, cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, bảo hiểm xã hội, kế hoạch đầu tư, thuế, tài chính, đơn vị sử dụng lao động và người lao động trong việc quản lý, thu thập, tổng hợp, lưu trữ, cung cấp thông tin thị trường lao động, giải quyết các chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Bảy là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp; Tiếp tục hiện đại hóa quản lý bảo hiểm thất nghiệp, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện.
Tám là, tăng cường hợp tác liên ngành, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp, nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật về mô hình tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực nhân sự thực hiện bảo hiểm thất nghiệp để xây dựng mô hình tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở thông lệ quốc tế và tiêu chuẩn tại các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên./.
--------------
[1] Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Cục Việc làm (2019). Mười năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
[2] Ban Chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 Nghị quyết hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.