Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 5 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong top 500 của thế giới về lĩnh vực toán học, trong đó có ít nhất hai cơ sở được xếp hạng trong top 400; Phấn đấu có ít nhất 5 hướng nghiên cứu chủ đạo về Toán ứng dụng và Toán trong công nghiệp; Đào tạo khoảng 400 tiến sĩ ngành Toán, Toán ứng dụng và Thống kê,…
Bài báo cung cấp một cái nhìn tổng quan về các đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, đặc biệt là tham chiếu đến quản trị của hệ thống; một bản tóm tắt về các cải cách đã được lên kế hoạch đối với hệ thống và cuối cùng là thảo luận các biện pháp nhằm đảm bảo quyền tự chủ thể chế và phương hướng ứng dụng chúng vào hệ thống một cách hợp lý.
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xem xét tính chuyên nghiệp được thiết lập và quản lý như thế nào trong trường đại học thông qua các chính sách và thực tiễn đảm bảo chất lượng thể chế nhằm hướng tới phát triển đội ngũ giảng viên và hội nhập quốc tế, đối tượng nghiên cứu là một trường đại học Việt Nam.
Nghiên cứu này nhằm mục đích đề xuất một số liệu mới, được gọi là S-score (S), để đo lường hiệu quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, tổ chức và tạp chí ở Indonesia. Nghiên cứu này đề xuất các mô hình, chỉ số và số liệu cụ thể và cung cấp kết quả của việc triển khai các số liệu này trên cổng cơ sở dữ liệu. Kết quả sẽ hữu ích cho các quốc gia nơi nhiều tạp chí không được lập chỉ mục trong cơ sở dữ liệu trích dẫn quốc tế, chẳng hạn như Scopus hoặc Web of Science.
Nghiên cứu này khám phá những điểm giống và khác nhau giữa JIF (the journal impact factor) và CS (CiteScore). Sự xuất hiện của CS sẽ tạo ra những văn hóa mới về đo lường trong xuất bản học thuật và đặt ra vấn đề các nhà xuất bản, tạp chí và tác giả sẽ sử dụng các chỉ số này như thế nào?
Xây dựng các nhóm nghiên cứu là một xu hướng mới đang diễn ra trong khối các cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục trong những năm gần đây. Tiêu biểu có thể kể đến các nhóm nghiên cứu đã được thành lập tại Đại học Quốc Gia Hà Nội, Trường Đại học Thủy Lợi, Trường Đại học Phenikaa, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân,...
Quyền truy cập mở các tạp chí học thuật đã được khuyến khích để cho phép bất kì ai có thể truy cập các bài báo trên tạp chí vượt qua rào cản về tài chính, pháp lí hoặc kĩ thuật. Tuy nhiên, một lí do quan trọng khác khiến nhiều nước ở Châu Á quan tâm đến các tạp chí truy cập mở là để tăng khả năng tiếp cận và khả năng hiển thị của các tạp chí của họ. Khu vực Châu Á đang gia tăng nhanh chóng về vị trí nổi bật trên trường thế giới, cả về hoạt động nghiên cứu cũng như sản xuất khoa học. Về kết quả nghiên cứu, khu vực châu Á đang phát triển nhanh chóng, ngược lại, tỉ lệ các tạp chí do các nước châu Á xuất bản trong các chỉ số quốc tế như Science Citation Index và Scopus tương đối thấp. Do đó, truy cập mở là một cách tốt để các nước châu Á tăng cường khả năng hiển thị các tạp chí của họ.
Nghiên cứu này phân tích quyền lực của Nhà nước đã ảnh hưởng như thế nào đến sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức giáo dục đại học trong quá trình quản trị. Tiếp theo, nghiên cứu này xem xét một số thay đổi đối với quản trị như quản trị về học thuật (tuyển sinh sinh viên, phát triển chương trình giảng dạy, quản lí chất lượng); quản trị về ngân sách; quản trị về hệ thống báo cáo, quản lí tổ chức và nhân sự để cho thấy các cơ sở giáo dục đại học đã được trao quyền tự chủ đến đâu.
Việc triển khai quản trị tri thức trong giáo dục đại học có thể mang đến những cải tiến, hoàn thành sứ mệnh mà các trường đại học hướng đến, giúp nâng cao năng lực tổ chức, ứng dụng kiến thức một cách hiệu quả.
Ngày nay, dữ liệu từ các nghiên cứu thường thu hút được sự quan tâm lớn do có thể được chia sẻ và diễn giải lại từ những góc nhìn mới. Phương pháp chia sẻ dữ liệu nghiên cứu rất đa dạng, từ việc chia sẻ trên quy mô nhỏ giữa các đồng nghiệp cho đến việc công khai các dữ liệu lên mạng Internet để bất kỳ ai cũng có thể truy cập được - chủ yếu thông qua các kho dữ liệu trực tuyến. Các dữ liệu này hầu hết đều cho phép mọi người tái sử dụng, còn gọi là “việc sử dụng dữ liệu thứ cấp - tức là không sử dụng theo mục đích ban đầu mà để nghiên cứu những vấn đề mới".
Nghiên cứu của nhóm tác giả Dié Gijsbers, Lesley de Putter-Smits & Birgit Pepin (2020) đã chỉ ra rằng, làm việc với các nhiệm vụ được hướng dẫn (guided tasks và nhiệm vụ thực tiễn) không chỉ đóng góp cho sự hiểu biết khái niệm về toán học mà còn giúp học sinh hiểu được những mối liên hệ của toán học, từ đó có sự hiểu biết đầy đủ hơn và nâng cao năng lực toán học.
Một nhà khoa học thần kinh nổi tiếng người Đức đã thực hiện hành vi sai trái khoa học trong đó ông tuyên bố đã phát triển một kỹ thuật theo dõi não có thể đọc được một số suy nghĩ của người bị liệt.
“Tư tưởng Nho giáo và công tác lãnh đạo nhà trường ở Việt Nam” – một công bố quốc tế (Confucian Values and Vietnamese School Leadership).
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ kĩ thuật số của giáo viên tiểu học trong thực tiễn giảng dạy của họ để đề xuất việc đào tạo giáo viên tốt hơn; từ đó, dẫn đến việc sử dụng công nghệ có hiệu quả hơn trong giáo dục.
Thay vì bị giới hạn trong kiến thức học thuật được cung cấp bởi các chương trình dựa trên đại học, nhận thức trong cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo giáo. Nghiên cứu này kết quả khám phá nhận thức của các thành viên cộng đồng về giáo viên, việc giảng dạy và đào tạo giáo viên ở Việt Nam. Sử dụng phỏng vấn sâu, nghiên cứu được coi là nhận thức và kinh nghiệm của 20 thành viên cộng đồng tại một thành phố lớn của Việt Nam. Kết quả ngụ ý rằng cộng đồng các thành viên coi kiến thức của giáo viên các trường từ mẫu giáo đến lớp 12 (K-12) là không đầy đủ, cách thực hành sư phạm của những giáo viên này là “truyền thống” và “không linh hoạt”. Theo những người tham gia, những thách thức đối với các trường K-12 ở Việt Nam một phần do các chính sách hiện hành và thực hành của đào tạo giáo viên; từ đó, gợi ý để giải quyết những mối quan tâm thông qua sự hợp tác giữa các thành viên cộng đồng và giáo viên K-12 với mục đích chuyển đổi việc giảng dạy và đào tạo giáo viên ở Việt Nam được thảo luận và mang lại ý nghĩa đối với các nghiên cứu trong tương lai.
Nghiên cứu đưa ra và đối sánh giữa hai cách tiếp cận khác nhau khi đánh giá tạp chí khoa học: trường hợp các tạp chí khoa học thuộc lĩnh vực giáo dục toán học.
Nghiên cứu này đánh giá về các công bố trên WoS liên quan đến lớp học đảo ngược, chỉ ra xu thế, nội dung nghiên cứu, nguồn công bố, sự ảnh hưởng của công bố,…
Nghiên cứu này được thiết kế nhằm tìm hiểu khả năng và tác động của sự tham gia của các chuyên gia STEM (Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học) vào giáo dục STEM của trường học.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Crossref, Tạp chí Giáo dục trân trọng lược dịch và giới thiệu quý bạn đọc nghiên cứu của tác giả Rachael Lammey đến từ tổ chức Crossref với tựa đề “Crossref sau 20 năm: Cộng đồng cần gì?”
Từ năm1986 đến năm 2008, xuất bản quốc tế hầu như không tồn tại trên thực tế trong giới học thuật, ngoại trừ trong cộng đồng toán học. Nghiên cứu này xem xét việc sử dụng xuất bản quốc tế (tức là xuất bản trên các tạp chí/sách được lập chỉ mục bởi cơ sở dữ liệu quốc tế) trong giới học thuật ở Việt Nam kể từ Đổi mới năm 1986. Phân tích tài liệu và phỏng vấn sâu với 20 học giả Việt Nam đã được thực hiện để giải quyết mục tiêu nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy ba cột mốc quan trọng trong phát triển học thuật: 1986-2008, 2008-2017 và 2017 cho đến nay, thể hiện những bước tiến nhất định và mở ra tương lai đối với xuất bản quốc tế tại Việt Nam. Trong thời gian tới, các nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo học thuật ở Việt Nam được khuyến nghị sử dụng nhiều hơn nữa các thước đo xuất bản quốc tế để nâng cao chất lượng và kết quả nghiên cứu quốc tế.