Tạp chí Giáo dục trân trọng lược dịch và giới thiệu quý bạn đọc về phân tích của Thanh Nghi Pham và Kimberly Goyette (2019) trong một chương của cuốn sách Transformations in Higher Education Governance in Asia. Higher Education in Asia: Quality, Excellence and Governance với tiêu đề “Higher Education Governance in Vietnam: Statism Versus Institutional Autonomy”.
Trước năm 1987 hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam theo mô hình của Liên Xô. Tất cả các trường đại học và cao đẳng đều do nhà nước sở hữu và quản lí, nhà nước chỉ định trách nhiệm quản lí các loại cơ sở giáo dục đại học cho các cơ quan chính phủ khác nhau.
Quá trình tái cơ cấu hệ thống giáo dục đại học bắt đầu từ đầu những năm 1990 với việc thành lập hai đại học quốc gia (Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) và ba đại học vùng (Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng), tất cả đều là các tổ chức đa ngành. Sự phát triển của các trường cao đẳng và đại học ngoài công lập vào đầu những năm 1990 được coi là thay đổi quan trọng nhất trong quá trình hướng tới tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học.
Các cơ sở giáo dục phải chịu trách nhiệm trước Bộ GD-ĐT về mặt học thuật; chịu sự giám sát của các cơ quan chính phủ khác nhau về mặt tài chính và hành chính. Các cơ sở giáo dục đại học công lập và ngoài công lập trong hệ thống có các mức độ tự chủ khác nhau. Hai trường đại học quốc gia được giao quyền tự chủ ở mức cao nhất; chịu trách nhiệm trực tiếp trước chính phủ và các cơ quan chính phủ trong các lĩnh vực thích hợp. Các cơ sở giáo dục đại học khác có mức độ tự chủ thấp hơn.
Ở cấp độ thể chế, các đơn vị mới đã được thành lập để mở rộng các hoạt động của trường đại học trong các lĩnh vực khác nhau. Các trung tâm dịch vụ sinh viên và trung tâm hợp tác quốc tế đã được tăng cường tại nhiều trường đại học như một tín hiệu về quyền tự chủ lớn hơn được trao cho các cơ sở giáo dục đại học.
Nghiên cứu này sẽ xem xét một số thay đổi đối với quản trị như quản trị về học thuật (tuyển sinh sinh viên, phát triển chương trình giảng dạy, quản lí chất lượng); quản trị về ngân sách; quản trị về hệ thống báo cáo, quản lí tổ chức và nhân sự để cho thấy các cơ sở giáo dục đại học đã được trao quyền tự chủ đến đâu.
Hiện nay, hầu hết các bên đồng ý rằng quản trị được quản lí tập trung đã không còn phù hợp. Trong các tài liệu gần đây, Bộ GD-ĐT đã tuyên bố rằng sẽ tập trung vào các vấn đề chính sách, bao gồm hoạch định chính sách và giám sát chính sách. Vẫn còn một chặng đường để hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam bắt kịp hệ thống mà các trường đại học được hưởng quyền tự chủ hoàn toàn về thể chế và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước các bên liên quan về các hoạt động và kết quả của mình nhưng những dấu hiệu chính sách và thực tiễn tự chủ như hiện nay là rất đáng quan tâm, nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo
Pham T.N., Goyette K. (2019). Higher Education Governance in Vietnam: Statism Versus Institutional Autonomy. In: Jarvis D., Mok K. (eds). Transformations in Higher Education Governance in Asia. Higher Education in Asia: Quality, Excellence and Governance. Springer, Singapore. https://doi.org/10.1007/978-981-13-9294-8_10.
Nguồn ảnh: www.businesstoday.in
Tác giả bài viết: Vũ Cẩm Tú
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn